TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC NICARAGUA

1. Thông tin chung
Tên đầy đủ |
Cộng hòa Nicaragua |
Vị trí địa lý |
Nằm ở Trung Mỹ,tiếp giáp biển Caribbean và biển Bắc Thái Bình Dương, nằm giữa Costa Rica và Honduras |
Diện tích Km2 |
129,494 |
Tài nguyên thiên nhiên |
Vàng, bạc,đồng, chì, kẽm, gỗ xẻ, cá, vofram |
Dân số (triệu người) |
5.79 |
Cấu trúc dân số |
0-14 tuổi: 30%
15-24 tuổi: 22.5%
25-54 tuổi: 37.4%
55-64 tuổi: 5.2%
Trên 65 tuổi: 4.7% |
Tỷ lệ tăng dân số (%) |
1.050 |
Dân tộc |
Người mestizo, người da trắng, người da đen, người Amerindian |
Thủ đô |
Managua |
Quốc khánh |
15/9/1821 |
Hệ thống pháp luật |
Dựa theo luật của Pháp |
GDP (tỷ USD) |
20.04 |
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%) |
4 |
GDP theo đầu người (USD) |
3300 |
GDP theo cấu trúc ngành |
nông nghiệp: 17.5%
công nghiệp: 25.8%
dịch vụ: 56.7% |
Lực lượng lao động (triệu) |
2.961 |
Lực lượng lao động theo lĩnh vực nghề nghiệp |
nông nghiệp: 28%
công nghiệp: 19%
dịch vụ: 53% |
Sản phẩm Nông nghiệp |
Cà phê, chuối, mía, bông, gạo, bông, thuốc lá, vừng, đậu nành, hột cà phê, bò, bê, lợn, gia cầm, sữa, tôm, tôm hùm |
Công nghiệp |
Chế biến thực phẩm, hóa chất, máy móc và sản phẩm kim loại, dệt may, quần áo, lọc dầu và phân phối, đồ uống, giầy dép, gỗ |
Xuất khẩu (triệu USD) |
4160 |
Mặt hàng xuất khẩu |
Cà phê, thịt bò, tôm và tôm hùm, thuốc lá, đường, vàng, lạc |
Đối tác xuất khẩu |
Hoa Kỳ, El Salvador,Canada, |
Nhập khẩu (triệu USD) |
6519 |
Mặt hàng nhập khẩu |
Hàng tiêu dùng, máy móc và thiết bị, nguyên liệu, dầu khí |
Đối tác nhập khẩu |
Hoa Kỳ, Venezuela, Mexico, Costa Rica, Trung Quốc, Guatemaia, El Salvador |
Nguồn: CIA 2013
2. Vị trí địa lý
Chiếm diện tích 129.494 km² – tương đương diện tích Hy Lạp hay bang New York và rộng gấp 1.5 lần Bồ Đào Nha. Gần 8% lãnh thổ là các vườn quốc gia hay các khu dự trữ sinh quyển. Nước này giáp Costa Rica ở phía nam, Honduras ở phía bắc và Biển Caribe ở phía đông.
Nicaragua là một nước cộng hoà nhất thể. Vì các mục đích hành chính đất nước được chia thành 15 khu vực hành chính(departamentos) và hai vùng tự trị dựa theo mô hình Tây Ban Nha. Hai vùng tự trị là Región Autónoma del Atlántico Norte và Región Autónoma del Atlántico Sur, thường được gọi tắt là RAAN và RAAS theo thứ tự. Cho tới khi hai vùng này được trao quy chế tự trị năm 1985 đây từng là một khu vực hành chính duy nhất với tên gọi Zelaya.
Nicaragua có ba vùng địa lý khác biệt: Những vùng đất thấp Thái bình dương, Vùng núi Trung Bắc và Những vùng đất thấp Đại Tây Dương.
3. Lịch sử
Năm 1524, Kẻ chinh phục Francisco Hernández de Córdoba đã thành lập những khu định cư thường trực Tây Ban Nha đầu tiên, gồm hai thị trấn chính của Nicaragua: Granada tại Hồ Nicaragua và León phía đông Hồ Managua. Được coi như một thuộc địa của Tây Ban Nha bên trong vương quốc Guatemala trong thập niên 1520, Nicaragua đã trở thành một phần của Đế chế Mexico và sau này giành lại độc lập như một phần của Các tỉnh Trung Mỹ Thống nhấtnăm 1821 và sau đó như một nhà nước cộng hòa độc lập với quyền của riêng mình năm 1838. Mosquito Coast dựa trên Bluefields tại Đại Tây Dương được Đế quốc Anh tuyên bố là khu vực bảo hộ từ năm 1655 tới 1850; vùng này được giao lại cho Honduras năm 1859 và tiếp tục chuyển cho Nicaragua năm 1860, dù nó vẫn tiếp tục có quy chế tự trị cho tới năm 1894.
Trong cuộc bầu cử tiếp sau năm 1996, Daniel Ortega và những người Sandinista thuộc FSLN một lần nữa bị đánh bại, lần này là bởi Arnoldo Alemán thuộc Đảng Tự do Lập hiến (PLC). Tổng thống Alemán đã có sự đồng thuận chiến lược với Ortega và FSLN, và chính trị Nicaragua hầu như được thành lập trên một hệ thống lưỡng đảng, với PLC và FSLN cùng hợp tác phân chia quyền lợi chính phủ cũng như các địa vị để ngăn cản các đảng nhỏ.
Trong cuộc bầu cử năm 2001, PLC một lần nữa đánh bại FSLN, và Enrique Bolaños thắng cử Tổng thống. Tuy nhiên, Tổng thống Bolaños sau đó đã chia tay PLC và cáo buộc cựu Tổng thống Alemán tham nhũng, với những tội danh có thể bị tuyên án tới 20 năm tù như biển thủ, rửa tiền và tham nhũng. Đảng Sandinista và các thành viên Tự do trung thành với Alemán phản ứng bằng cách tước đoạt quyền lực của Tổng thống Bolaños cùng các bộ trưởng và đe dọa buộc tội phản quốc. Cuộc “đảo chính diễn biến chậm” này đã bị ngăn chặn một phần nhờ sức ép từ phía Hoa Kỳ, với lời hứa hẹn những thay đổi hiến pháp bị trì hoãn cho tới cuộc bầu cử theo dự kiến năm 2006.
Tháng 10 năm 1996, Đảng Liên minh tự do, bảo thủ lên cầm quyền sau khi thắng cử, Tổng thống Arnoldo Aleman bị cáo buộc tham nhũng và làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng của đất nước.
Tổng thống thuộc Đảng Tự do hợp hiến Enrique Bolanos Geyer (từ tháng 1 năm 2002) không giải quyết được tình trạng khủng hoảng.
Bầu cử ngày 5 tháng 11 năm 2006, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng dân tộc Sandino (FSLN) Daniel Ortega Saavedra giành thắng lợi và trở lại cầm quyền sau 16 năm.
4. Chính trị – Đối ngoại
Chính trị Nicaragua theo cơ cấu một nhà nước cộng hòa tổng thống đại diện dân chủ, theo đó Tổng thống Nicaragua vừa là lãnh đạo nhà nước vừa là lãnh đạo chính phủ, và một hệ thống đa đảng phái. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do Quốc hội đảm nhiệm. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Tổng thống hiện nay của Nicaragua là Enrique Bolaños Geyer . Những cuộc bầu cử lập pháp và tổng thống diễn ra ngày 5 tháng 11 năm 2006. Cuộc bầu cử này đã mở đường cho Daniel Ortega lên nắm quyền lần thứ ba. Ông đã thắng 39% số phiếu bầu, đủ để chiến thắng.
Nicaragua dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng dân tộc Sandino chủ trương tăng cường đoàn kết, liên kết Mỹ Latinh, đẩy mạnh quan hệ hợp tác chặt chẽ với Cuba, Venuela và các nước dân tộc, độc lập ở khu vực; đã chính thức gia nhập “Lựa chọn Boliva cho châu Mỹ” (ALBA) (ngày 15 tháng 1 năm 2007).
Là thành viên của Liên Hiệp Quốc, WTO, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), Nhóm 77 (G-77), Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế(IAEA), Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Phong trào không liên kết….
5. Kinh tế
Kinh tế Nicaragua từ lâu đã dựa vào xuất khẩu các loại cây trồng như chuối, cà phê, và thuốc lá. Rượu rum Nicaragua nổi tiếng có chất lượng cao nhất Mỹ La tinh, và thuốc lá cùng thịt bò của họ cũng được đánh giá cao. Trong thời Chiến tranh Sandinista đầu thập niên 1980, đa số hạ tầng quốc gia đã bị hư hại hay phá huỷ, lạm phát từng lên tới mức hàng nghìn phần trăm. Từ cuối cuộc chiến hai thập kỷ trước đây, nhiều ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đã được tư nhân hoá. Lạm phát đã xuống mức kiểm soát được và kinh tế tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây.
Như nhiều quốc gia đang phát triển khác, một tỷ lệ lớn người nghèo tại Nicaragua là phụ nữ. Ngoài ra, một số phần trăm khá cao hộ gia đình Nicaragua do phụ nữ làm chủ hộ: 39% tại thành phố và 28% tại nông thôn.
Đất nước này vẫn đang là một nền kinh tế đang hồi phục và tiếp tục áp dụng các biện pháp cải cách hơn nữa, và chúng cũng chính là điều kiện do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đặt ra. Năm 2005, các bộ trưởng tài chính của tám nước công nghiệp hàng đầu (G-8) đã xóa nợ nước ngoài cho Nicaragua, như một phần trong chương trình Các nước nghèo có số nợ lớn (HIPC). Tới năm 2016, Nicaragua là nước nghèo thứ ba tại châu Mỹ sau Bolivia và Honduras, với mức Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người khoảng $13.413, đứng thứ 123 thế giới và đứng thứ 19 khu vực Mỹ Latin. Tỷ lệ thất nghiệp chính thức khoảng 11%, và 36% khác ở tình trạng bán thất nghiệp.
Đơn vị tiền tệ Nicaragua là Córdoba (NIO) được đặt theo tên Francisco Hernández de Córdoba người sáng lập quốc gia.
6. Ẩm thực
Ẩm thực Nicaragua có rất nhiều món ăn truyền thống, mỗi vùng miền đều có những món ăn riêng tạo nền một nền ẩm thực phong phú.
Trái Bắp là thành phần chính của thức ăn và bữa cơm của người Nicaragua, dựa trên cách chế biến truyền thống từ những bộ lạc cổ sống trên vùng đất này, người dân Nicaragua sử dụng trái bắp khá nhiều trong món ăn của họ, từ các món thịt tới các món soup,…Được coi là nguyên liệu chính trong món ăn trái bắp còn được sử dùng trong nhiều loại nước uống như Pinol, bắp xay cùng vài loại hạt, sau đó pha nước hoặc Chicha trái cây và bắp lên men nhẹ.
7. Văn hóa
Đất nước Nicaragua có các truyền thống dân gian, âm nhạc và tôn giáo mạnh mẽ, nó bị ảnh hưởng mạnh từ văn hoá Bán đảo Iberia và trở nên giàu có thêm với âm nhạc cùng đặc trưng Amerindia. Nicaragua từ lâu đã là trung tâm thơ văn của thế giới Hispanic (người Châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha), với những tác gia nổi tiếng như Rubén Darío.
8. Du lịch
Trong khoảng 15 năm qua, lĩnh vực du lịch đã phát triển mạnh mẽ, và ảnh hưởng tích cực tới đời sống và kinh tế Nicaragua. Từ năm 2001, 600 triệu dollar đã được đầu tư cho du lịch, đa số khoản tiền này có từ các nhà đầu tư Nicaragua và Hoa Kỳ. Đất nước này nổi tiếng về phong cảnh, hệ động thực vật, văn hoá, các bãi biển và tất nhiên là cả các hồ nước và núi lửa.
Theo Bộ Du lịch Nicaragua, thành phố thời thuộc địa Granada, Nicaragua là địa điểm du lịch hoàn hảo. Tương tự, các thành phố León, Masaya, Rivas và các địa điểm khác như San Juan del Sur, San Juan River, Ometepe, Mombacho Volcano, Corn Island & Little Corn Island, và các nơi khác cũng là những địa điểm thu hút nhiều du khách. Ngoài ra, du lịch sinh thái và môn thể thao lướt sóng cũng là điểm cuốn hút du khách tới Nicaragua.
Những lợi ích kinh tế có thể thu được từ du lịch là điều không thể tranh cãi; ngày nay, du lịch chiếm khoảng 10% thu nhập Nicaragua. Nhiều khoản đầu tư và hỗ trợ từ phía chính phủ sẽ được đổ thêm vào đây sau khi Thỏa thuận Tự do Thương mại Trung Mỹ-Dominica được ký kết.
Thành phố Sư tử (León) được thành lập đầu tiên vào năm 1524 với tên gọi Santiago de Los Caballeros de León de Nicaragua nhằm tôn vinh Thánh Jame (Santiago) đã bảo vệ cho thành phố. Leon là điểm đến không thể bỏ qua trên đất nước Nicaragua.
Cuộc động đất kinh hoàng 11/01/1610 đã phá hủy toàn bộ thành phố và León được xây dựng lại để trở thành thủ đô của Nicaragua. Quá sợ hải trước sự giận dữ của thiên nhiên, song song với việc xây dựng lại León, người Tây Ban Nha xây dựng thêm một thủ đô dự phòng chính là Granada ngày nay. Mời các bạn xem chiêm ngưỡng một số hình ảnh về Leon

Nhà thờ trung tâm León, hay còn gọi nhà thờ Đức Mẹ Maria

Nhà thờ Thánh San Francisco theo kiến trúc Mỹ Latinh

Nhà thờ La Recoleccion ở “Thành phố Sư tử” Leon

Nhà thờ El Calvario

Nhà thờ San Felipe cổ kính nhất tại León theo kiến trúc Moorish

Một nhà thờ khác ở thành phố Leon

Thành phố Leon của Nicaragua

Những dãy lồng đèn treo trên các dãy phố ở Leon

Đường phố Leon