TỔNG QUAN VỀ GEORGIA/ GRUZIA
I. Địa lý và khí hậu

Bắc Gruzia, Vùng Kazbegi
Ở phía bắc, Gruzia có 723 km biên giới chung với Nga, cụ thể là quận liên bang Bắc Kavkaz. Các vùng/nước cộng hòa sau thuộc Nga – từ tây sang đông – có biên giới với Gruzia: Krasnodar Krai, Karachay-Cherkessia, Kabardino-Balkaria, Bắc Ossetia Alania, Ingushetia, Chechnya, Dagestan. Gruzia cũng có chung biên giới với Azerbaijan (322 km) ở phía đông nam, Armenia (164 km.) ở phía nam, và Thổ Nhĩ Kỳ (252 km.) ở phía tây nam.
Núi non là kiểu địa lý đặc trưng tại Gruzia. Dãy Likhi chia Gruzia thành nửa phía đông và nửa phía tây. Trong lịch sử, nửa phía tây Gruzia được gọi là Colchis còn phần phía đông được gọi là Iberia. Vì kiểu địa hình phức tạp, núi non cũng ngăn cách vùng phía bắc Svaneti khỏi Gruzia.
Dãy Đại Caucasus ngăn cách Gruzia với các nước Bắc Kavkaz thuộc nước Nga. Phần phía nam đất nước giáp với dãy Hạ Kavkaz. Dãy núi Kavkaz có độ cao lớn hơn dãy Hạ Kavkaz, với đỉnh cao nhất hơn 5.000 mét (16.400 ft.) trên mực nước biển.
Núi cao nhất tại Gruzia là Núi Shkhara ở độ cao 5.201 mét (17.059 feet), đứng thứ hai là Núi Janga (Jangi-Tau) ở độ cao 5.051 mét (16.572 feet) trên mực nước biển. Các đỉnh đáng chú ý khác gồm Kazbegi (Kazbek) 5.047 mét (16.554 feet), Tetnuldi (4.974m./16.319 ft.), Shota Rustaveli (4.960m./16.273 ft.), Núi Ushba (4.710m./15.453 ft.), và Ailama (4.525m./14.842 ft.). Ngoài các đỉnh trên, chỉ Kazbegi có nguồn gốc núi lửa. Vùng giữa Kazbegi và Shkhara (khoảng cách chừng 200 km, dọc dãy Kavkaz chính) chủ yếu gồm nhiều đỉnh băng tuyết. Núi Hạ Kavkaz được tạo thành và chia cắt bởi nhiều dãy núi (chủ yếu có nguồn gốc núi lửa) không vượt quá 3.400 mét. Các đặc điểm chủ yếu của vùng này gồm Cao nguyên Núi lửa Javakheti, nhiều hồ, gồm cả Tabatskuri và Paravani, cũng như nhiều suối nước khoáng và nước nóng.
Hang Voronya (còn được gọi là hang Krubera-Voronia) là hang sâu nhất thế giới, nằm tại Arabika Massif trong dãy Gagra, ở Abkhazia, Gruzia, Kavkaz. Chênh lệnh độ cao của hang là 2.140 (± 9) mét. Hang này cũng giữ kỷ lục độ sâu 1.710 mét năm 2001 theo khám phá của một đội khảo sát Nga-Ukraine. Năm 2004 độ sâu của hang này còn tăng thêm sau ba đợt thám hiểm khác. Một đội khảo sát Ukraine đã vượt độ sâu –2000 m lần đầu tiên trong lịch sử hang học. Tháng 10 năm 2005, một phần mới chưa được khám phá đã được đội CAVEX tìm thấy, và hang còn trở nên sâu hơn. Cuộc thám hiểm này đã xác nhận độ sâu hiện nay của hang – 2.140 (± 9).
Hai con sông chính tại Gruzia là Rioni và Mtkvari.
II. Phong cảnh

Một phong cảnh hùng vĩ thuộc vùng núi phía đông Gruzia
Phong cảnh bên trong biên giới quốc gia khá khác biệt. Cảnh quan vùng phía tây Gruzia trãi rộng từ các cánh rừng đầm lầy đất thấp và rừng mưa ôn đới tới những dòng sông băng tuyết vĩnh cửu, trong khi vùng phía đông đất nước có nhiều đồng bằng bán khô cằn không liên tục nhỏ, đặc điểm của vùng Trung Á. Rừng che phủ khoảng 40% diện tích lãnh thổ Gruzia trong khi những vùng núi non phụ núi cao chiếm khoảng 10%.
Đa phần dân cư tự nhiên tại những vùng đất thấp phía tây Gruzia đã biến mất trong vòng 100 năm qua vì tình trạng phát triển nông nghiệp và thành thị hoá. Đại đa số rừng từng che phủ đồng bằng Colchis hiện không còn tồn tại ngoại trừ những vùng đã được giành làm các công viên và khu dự trữ quốc gia (ví dụ vùng Hồ Paleostomi). Hiện tại, nói chung rừng che phủ phần bên ngoài các vùng đất thấp và chủ yếu nằm dọc các chân đồi núi. Những cánh rừng tây Gruzia chủ yếu gồm các cây phù du dưới 600 m trên mực nước biển (1.968 ft.) và gồm các loài như sồi, trăn, sồi phương đông, đu, tần bì, và dẻ. Những loài cây xanh tốt quanh năm như cây hoàng dương cũng xuất hiện tại nhiều vùng. Khoảng 1000 trên tổng số hơn 4000 loài thực vật Gruzia là sinh vật đặc hữu của quốc gia này[36]. Những khu vực đất dốc tây trung tâm Rặng Meskheti tại Ajaria cũng như nhiều địa điểm ở Samegrelovà Abkhazia được che phủ bởi những cánh rừng mưa ôn đới. Ở độ cao 600–1.500 mét (1.968-4.920 ft.) trên mực nước biển, những cánh rừng cây bụi hòa trộn với cả những loài cây lá rộng và tùng bách tạo nên đời sống thực vật. Vùng này chủ yếu gồm những cánh rừng cây sồi, vân sam, và linh sam. Từ 1.500-1.800 mét, rừng chủ yếu gồm họ tùng bách. Các loài cây nói chung không mọc ở độ cao trên 1.800 mét và vùng núi bắt đầu thay thế, ở đa số các vùng, mở rộng lên tới độ cao 3.000 mét trên mực nước biển. Vùng băng tuyết vĩnh cửu nằm trên vạch 3.000 mét.

Thị trấn các lâu đài thời Trung cổ Shatili tại Khevsureti
Phong cảnh đông Gruzia (vùng lãnh thổ phía đông Dãy Likhi) rất khác biệt so với phong cảnh phía tây, gần như tất cả các vùng đất thấp phía đông Gruzia gồm cả các đồng bằng sông Mtkvari và Alazani đều đã không còn rừng vì bị sử dụng vào nông nghiệp. Ngoài ra, vì điều kiện khí hậu khá khô tại đây, một số đồng bằng đất thấp (đặc biệt tại Kartli và tây nam Kakheti) chưa bao giờ có rừng che phủ. Phong cảnh chung phía đông Gruzia gồm nhiều thung lũng và máng bị núi non chia cắt. Trái ngược với tây Gruzia, gần 85% rừng tại vùng này là phù du. Những cánh rừng tùng bách chỉ chiếm ưu thế tại Borjomi Gorge và các vùng cực tây. Ngoài các loài cây phù du, sồi, trăn cũng là loài ưu thế. Các loài phù du khác gồm nhiều giống thích, dương lá rung, tần bì, và phỉ. Thung lũng thượng sông Alazani gồm các cánh rừng thủy tùng. Ở độc cao trên 1.000 mét (3.280 ft) trên mực nước biển (đặc biệt tại vùng Tusheti, Khevsureti, và Khevi), các cánh rừng thông và bu lô chiếm ưu thế. Nói chung các cánh rừng phía đông Gruzia xuất hiện trong khoảng độ cao 500–2.000 mét (1.640–6.560 ft) trên mực nước biển, và vùng cây thông trải dài từ 2.000/2.200–3.000/3.500 mét (khoảng 6.560–11.480 ft). Cánh rừng đất thấp lớn duy nhất còn lại tại Thung lũng Alazani là Kakheti. Vùng băng tuyết vĩnh cửu trên 3.500 mét (11.480 ft.) xuất hiện tại hầu hết các nơi ở Gruzia.
III. Hệ động vật
Vì sự đa dạng phong cảnh và có vĩ độ thấp, Gruzia là nơi sinh sống của một số loài động vật đặc biệt, ví dụ khoảng 1000 loài có xương sống (330 loài chim, 160 cá, 48 bò sát, 11 lưỡng cư). Một số lượng lớn loài ăn thịt sống tại các khu rừng, như Báo Ba Tư, Gấu xám, chó sói, và mèo rừng. Số lượng các loài không xương sốngđược coi là rất cao nhưng dữ liệu được phân loại thành nhiều ấn bản. Ví dụ, danh sách nhện Gruzia gồm 501 loài.
III. Khí hậu

Khí hậu địa phương rất thích hợp cho ngành chế biến rượu và có 500 loại rượu khác nhau tại Gruzia
Trên một diện tích khá nhỏ, khí hậu Gruzia khá khác biệt. Có hai vùng khí hậu chính, vùng phía đông và vùng phía tây đất nước. Dãy Đại Kavkaz đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ôn hòa khí hậu Gruzia và bảo vệ quốc gia này khỏi sự xâm nhập của những khối khí lạnh từ phương bắc. Dãy Tiểu Kavkaz cũng đóng góp một phần bảo vệ nước này khỏi ảnh hưởng từ các khối không khí khô và nóng từ phía nam.
Đa phần vùng phía tây Gruzia nằm bên trong lề vùng cận nhiệt đới ẩm với lượng mưa hàng năm thay đổi trong khoảng 1000–4000mm. (39–157 inches). Lượng mưa có xu hướng phân bố đồng đều suốt cả năm, dù lượng mưa có thể rất lớn trong những tháng mùa Thu. Khí hậu của vùng này rất khác biệt theo độ cao và tuy đa số những vùng đất thấp phía tây Gruzia có thời tiết khá ấm suốt năm, những vùng đồi núi (gồm cả Dãy Đại và Tiểu Kavkaz) có mùa hè mát, ẩm và mùa đông nhiều tuyết (lượng tuyết phủ thường vượt quá 2 mét tại nhiều vùng). Ajaria và vùng ẩm nhất Kavkaz, nơi rừng mưa Núi Mtirala, phía đông Kobuleti có lượng mưa khoảng 4500mm (177 inches) hàng năm.
Đông Gruzia có kiểu khí hậu chuyển tiếp từ cận nhiệt đới ẩm sang lục địa. Mô hình khí hậu vùng này bị ảnh hưởng bởi cả những khối không khí khô Trung Á/Caspia và những khối không khí từ Biển Đen phía tây. Sự xâm nhập của những khối không khí ẩm từ Biển Đen thường bị ngăn chặn bởi nhiều rặng núi (Likhi và Meskheti) chia cắt những vùng phía đông và phía tây đất nước. Lượng mưa hàng năm thấp hơn rất nhiều so với vùng tây Gruzia và ở trong khoảng 400–1600mm (16–63 inches). Các giai đoạn ẩm nhất thường diễn ra trong mùa Xuân và mùa Thu còn những tháng mùa Đông và mùa Hè thường khô hơn. Đa phần vùng phía đông Gruzia có mùa hè nóng (đặc biệt tại các vùng thấp) và mùa đông khá lạnh. Tương tự tại các vùng phía tây đất nước, độ cao cũng đóng vai trò quan trọng tại vùng phía đông, và các điều kiện khí hậu ở độ cao hơn 1500 mét (4920 ft) trên mực nước biển thường lạnh hơn rất nhiều so với tại các vùng đất thấp. Các vùng nằm ở độ cao trên 2000 mét (6560 ft) trên mực nước biển thường có tình trạng đóng băng ngay cả trong những tháng mùa hè.
IV. Kinh tế
Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy Gruzia đã có mối quan hệ thương mại với nhiều vùng đất và đế chế ngay từ những thời cổ đại, chủ yếu nhờ vị trí của nước này tại Biển Đen và sau này là gần Con đường tơ lụa lịch sử. Vàng, bạc, đồng và sắt đã từng được khai thác tại các mỏ vùng núi Kavkaz. Chế biến rượu cũng có truyền thống từ lâu đời.
Xuyên suốt lịch sử hiện đại Gruzia nông nghiệp và du lịch luôn là những lĩnh vực then chốt, vì kiểu địa hình và khí hậu đất nước.[38]
Trong hầu hết thế kỷ XX, kinh tế Gruzia đi theo mô hình nền kinh tế chỉ huy Xô viết.
Từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, Gruzia đã bắt đầu tiến hành một cuộc cải cách cơ cấu lớn với mục tiêu chuyển tiếp sang một nền kinh tế thị trường tự do. Tuy nhiên, tương tự như các nước cộng hòa hậu Xô viết khác, Gruzia đã phải đối mặt với tình trạng sụp đổ kinh tế nghiêm trọng. Nội chiến và những cuộc xung đột quân sự tại Nam Ossetia và Abkhazia càng làm cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ. Sản lượng nông nghiệp và công nghiệp sụt giảm. Tới năm 1994 tổng sản phẩm quốc nối đã giảm xuống chỉ còn bằng một phần tư năm 1989.
Sự hỗ trợ tài chính đầu tiên của phương Tây cho nước này diễn ra năm 1995, khi Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế trao cho Gruzia khoản vay 206 triệu USD và Đức cho nước này vay 50 triệu DM.
Tới năm 2001 54% dân số sống dưới mức nghèo khổ quốc gia nhưng tới năm 2006 con số ngày đã giảm còn 34%. Năm 2005 thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình là GEL 347 (khoảng 200 USD).

Đại lộ Shardeni tại Tbilisi
Từ đầu thập niên 2000 những phát triển lạc quan đã được quan sát thấy trong nền kinh tế Gruzia. Năm 2006 tăng trưởng GDP thực của Gruzia đã đạt 8.8%, khiến Gruzia trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Âu.[38] Ngân hàng Thế giới đã trao cho Gruzia danh hiệu “nền kinh tế cải cách số một thế giới” vì trong vòng một năm nước này đã cải thiện vị trí từ 112 lên 37 về sự dễ dàng trong kinh doanh.[41] Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp cao 12.6% và thu nhập trung bình hộ còn ở mức khá thấp so với các quốc gia châu Âu khác.
Những con số ước tính năm 2006 cho thấy mức GDP (theo sức mua tương đương) của Gruzia đạt mức US$17.79 tỷ. Kinh tế Gruzia đang trở nên phụ thuộc hơn vào dịch vụ (hiện chiếm 54.8% GDP), chứ không còn vào lĩnh vực nông nghiệp (17.7%) nữa.
Nước này có nguồn tài nguyên thủy năng lớn.
Lệnh cấm nhập khẩu rượu Gruzia vào Nga năm 2006, một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Gruzia, và dừng các kết nối tài chính đã được phái bộ của IMF miêu tả là một “cú sốc từ bên ngoài”,[42] Ngoài ra, Nga đã tăng giá khí đốt bán cho Gruzia. Hành động này khiến tỷ lệ lạm phát của đồng lari Gruzia tăng mạnh. Ngân hàng Quốc gia Gruzia nói rằng lạm phát chủ yếu bị gây ra bởi những lý do bên ngoài, gồm cả lệnh cấm vận kinh tế của Nga.[43] Các cơ quan chức năng Gruzia hy vọng khoản thâm hụt tài khoản vãng lai do lệnh cấm vận gây ra trong năm 2007 sẽ được cân bằng bởi “tỷ giá quy đổi ngoại tệ cao nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào mạnh” và nguồn thu tăng của du lịch.
Gruzia hiện đang hội nhập sâu hơn vào mạng lưới thương mại quốc tế: nhập khẩu và xuất khẩu trong năm 2006 của nước này chiếm 10% và 18% GDP. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Gruzia là khí gas tự nhiên, các sản phẩm dầu mỏ, máy và phụ tùng, và các trang thiết bị vận tải.
Năm 2004, khoản thuế thu nhập cố định 12% đã được áp dụng tại Gruzia.[46] Số tiền thuế thu được đã tăng đáng kể, nhờ vậy giảm bớt những khoản thâm hụt ngân sách lớn trước kia của chính phủ.
Các chuyên gia ước tính rằng trong vòng vài năm qua Gruzia đã thu hẹp được đáng kể tình trạng tham nhũng, và tổ chức Minh bạch Quốc tế đã đưa Gruzia từ vị trí 130 lên 99 thế giới trong danh sách Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2006 của họ (số 1 là quốc gia có nạn tham nhũng ít nhất).
Gruzia đang phát triển vào một hành lang vận tải quốc tế qua các cảng Batumi và Poti, một đường ống dẫn dầu từ Baku xuyên Tbilisi tới Ceyhan, đường ống Baku-Tbilisi-Ceyhan (BTC) và một đường ống dẫn khí chạy song song, Đường ống dẫn khí Nam Kavkaz.
Tính đến năm 2016, GDP của Gruzia đạt 14.463 USD, đứng thứ 118 thế giới và đứng thứ 38 châu Âu.
V. Nhân khẩu

Giới trẻ Gruzia trong trang phục truyền thống, trang phục nam là bộ Chokha
Nhân khẩu Gruzia có đặc trưng ở sự đa dạng sắc tộc. Dân tộc Grizia chiếm đa số, khoảng 83.8%, dân số hiện tại của Gruzia 4.661.473 người (ước tính tháng 7 năm 2006). Các nhóm sắc tộc khác gồm người Azeri, chiếm 6.5% dân số, người Armenia – 5.7%, Nga – 1.5%, người Abkhazia, và người Ossetia. Nhiều nhóm sắc tộc nhỏ hơn khác cũng sống tại quốc gia này gồm người Assyria, người Chechen, Trung Quốc, người Do Thái Gruzia, người Hy Lạp, người Kabardin, người Kurd, người Tatar, người Turk và người Ukraina. Đáng chú ý, cộng đồng người Do Thái Gruzia là một trong những cộng đồng lâu đời nhất trên thế giới.
Gruzia cũng là quốc gia có sự đa dạng về ngôn ngữ. Trong ngữ hệ Gruzia, người Gruzia nói tiếng Gruzia (cũng được gọi là Kartuli), tiếng Laz, tiếng Mingrelian, và tiếng Svan. Ngoài ra, những cộng đồng không phải người Gruzia bên trong đất nước thường sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ bên cạnh tiếng Gruzia. Các ngôn ngữ chính thức của Gruzia gồm tiếng Gruzia và tiếng Abkhaz tại vùng tự trị Abkhazia. 71% dân số nói các ngôn ngữ Gruzia (gồm Mingrelian, tiếng Svan, và tiếng Laz), 9% – tiếng Nga, 7% – tiếng Armenia, 6% – Azeri và 7% khác. Tỷ lệ biết chữ tại Gruzia là 100%.
Đầu thập niên 1990, sau khi Liên bang Xô viết giải tán, nhiều cuộc xung đột ly khai bạo lực đã bùng phát tại vùng tự trị Abkhazia và Nam Ossetia, dẫn tới cuộc thanh lộc sắc tộc người Gruzia khỏi Abkhazia, nơi trước kia sắc tộc Gruzia từng là nhóm sắc tộc riêng lẻ lớn nhất (46% dân số năm 1989). Nhiều người Ossetia sống tại Gruzia cũng rời bỏ đất nước, chủ yếu tới vùng Bắc Ossetia thuộc Nga. Trong số những người Meskhetian Turk từng bị bắt buộc di dời trong năm 1944 chỉ một nhóm nhỏ quay trở lại Gruzia năm 2007.
Tỷ lệ di cư thực của Gruzia là -4.54, không tính những người Gruzia sống tại nước ngoài. Dù sao Gruzia đã tiếp nhận những người di cư từ khắp nơi trên thế giới trong suốt thời kỳ độc lập. Theo những con số thống kê năm 2006, đa số người di cư tới Gruzia từ Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc.
VI. Tôn giáo

Tôn giáo tại Gruzia (2014)

Một trang từ cuốn Kinh thánhhiếm của Gruzia, có niên đại từ năm 1030 Công Nguyên, vẽ Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazarus sống lại
Gruzia là một trong những nước đầu tiên nhận Ki-tô giáo làm quốc giáo (năm 337 AD, hoặc năm 319 theo như một số ý kiến gần đây), khiến Gruzia trở thành quốc gia Kitô lâu đời thứ hai chỉ sau Armenia. Điều này tạo nên ý thức dân tộc mạnh mẽ giúp bảo tồn đặc tính quốc gia trước những giai đoạn bị ngoại bang xâm chiếm và đồng hóa. Ngày nay đa số dân cư Gruzia theo Kitô giáo Chính thống (83.9%), thuộc về Giáo hội Chính thống Gruzia. Tuy nhiên, Gruzia có lịch sử hòa trộn tôn giáo lâu dài bên trong biên giới lãnh thổ dù có những cuộc xung đột với các quốc gia xung quanh. Nhiều cộng đồng tôn giáo thiểu số đã tồn tại tại Gruzia trong hàng nghìn năm và tình trạng phân biệt tôn giáo rõ ràng không xuất hiện tại quốc gia này.

Nhà thờ chính tòa Svetitskhoveli ở Mtskheta, cố đô của Gruzia, là một trong số những thánh đường cổ xưa nhất trong thế giới Kitô giáo.
Kitô giáo, lần đầu được các thánh Tông đồ Anrê, Simôn Quá Khích và Matthia thuyết giảng vào thế kỷ thứ nhất. Miền Iberia chính thức cải sang Kitô giáo năm 326 bởi thánh Nino xứ Cappadocia, được tôn vinh là người soi sáng cho Gruzia. Kinh thánh đã được dịch sang tiếng Gruzia ở thế kỷ thứ V. Đáng chú ý, bản ghi chép cổ nhất của Gruzia là một văn bản asomtavruli trong một nhà thờ tại Bethlehem từ năm 430 Công Nguyên.
Thánh đường Svetitskhoveli, nổi tiếng là nơi lưu giữ chiếc áo choàng của Chúa Giêsu, chiếc áo này được mang tới Mtskheta sau khi cuộc hành hình đóng đinh lên thánh giá diễn ra, bởi một người Do thái từ Iberia, Elias, là nhà thờ đầu tiên tại Gruzia. Gruzia thuộc sự bảo trợ của Đức Mẹ đồng trinh Maria, theo thánh Stefan người nói rằng sứ mệnh của Đức Mẹ ở vùng đất Iberia sau khi các thánh Tông đồ bốc thăm để quyết định xem Chúa muốn mỗi người trong số họ sẽ truyền giáo tại quốc gia nào. Jacques de Vitry và Sir John Maundeville đã nói rằng người Gruzia được gọi là Georgian bởi họ đặc biệt sùng kính thánh George và khi họ đi hành hương tới Mộ Chúa, họ đã vào thành phố Jerusalem với những biểu ngữ phô trương.
Các nhóm thiểu số tôn giáo gồm: Hồi giáo (9.9%); Giáo hội Tông truyền Armenia (3.9%); Công giáo Rôma (0.8%). Có 0.8% số người trong cuộc điều tra dân số năm 2002 trả lời họ là tín đồ của một tôn giáo khác và 0.7% vô thần.
VII. Văn hoá
Văn hóa Gruzia đã phát triển từ hàng nghìn năm cùng lịch sử nền văn minh hai quốc gia tiền thân của nó là Iberia và Colchis[54], tiếp tục phát triển cùng Vương quốc Gruzia thống nhất ở thời triều đình Bagrationi đạt tới đỉnh cao về văn học cổ điển, nghệ thuật, triết học, kiến trúc và khoa học ở thế kỷ XI.[55] Ngôn ngữ Gruzia tràn đầy sức sống cộng với bảng chữ cái độc nhất, và nền văn học Gruzia cổ điển với nhà thơ sử thi huyền thoại Shota Rustaveli đã được hồi sinh ở thế kỷ XIX sau một giai đoạn hỗn loạn kéo dài, lập nên những nền tảng cho các thành tựu của các tác giả thuộc trường phái lãng mạn các tiểu thuyết gia thời hiện đại như Grigol Orbeliani, Nikoloz Baratashvili, Ilia Chavchavadze, Akaki Tsereteli, Vaza Pshavela, và những người khác. Văn hóa Gruzia với nền văn minh độc đáo và duy nhất cũng có ảnh hưởng từ Hy Lạp cổ điển, La Mã và Đế chế Byzantine, và sau này là bởi Đế chế Nga góp phần tạo ra bản sắc châu Âu của nền văn nước này.
Gruzia nổi tiếng vì có một nền văn hóa dân gian phong phú, âm nhạc truyền thống độc đáo, sân khấu, phim, nghệ thuật, vân vân. Người dân Gruzia được thế giới biết tới về lòng yêu âm nhạc, khiêu vũ, sân khấu và điện ảnh như đã được chứng minh trong thế kỷ XX với những đóng góp to lớn của họ vào nền nghệ thuật thế giới nhờ những gương mặt nghệ sĩ đại diện cho nền văn hóa Gruzia như các họa sĩ lừng danh (Niko Pirosmani, Lado Gudiashvili, Elene Akhvlediani, vân vân), ballet choreographers (George Balanchine, Vakhtang Chabukiani, Nino Ananiashvili) các nhà thơ (Galaktion Tabidze, Lado Asatiani, Mukhran Machavariani, vân vân) và các đạo diễn sân khấu/phim (Robert Sturua, Tengiz Abuladze, Otar Ioseliani, vân vân).
VIII. Kiến trúc

Nhà hát Quốc gia Akaki tại Senaki, một ví dụ về phong cách tân cổ điển với các yếu tố barốc tại Gruzia. Architect Vakhtang Gogoladze.
Kiến trúc Gruzia là một trong những nền kiến trúc đặc biệt và độc đáo nhất thế giới. Tuy nhiên, nó đã trở nên phong phú và hấp thu ảnh hưởng từ nhiều nền văn minh bên ngoài trong suốt lịch sử lâu dài của đất nước. Có nhiều phong cách kiến trúc lâu đài, tháp pháo đài và nhà thờ. Pháo đài Upper Svaneti và thị trấn lâu đài Shatili tại Khevsureti là một trong những công trình đẹp nhất thể hiện phong cách kiến trúc lâu đài Gruzia thời Trung Cổ.
Nghệ thuật nhà thờ Gruzia là một trong những khía cạnh đáng chú ý nhất của kiến trúc Kitô giáo Gruzia, tích hợp kiểu mái vòm cổ điển với phong cách kiến trúc La Mã nguyên thủy hình thành nên cái được gọi là phong cách vòm chéo Gruzia. Phong cách kiến trúc vòm chéo đã được phát triển tại Gruzia trong thế kỷ thứ IX và trước đó, đa số các nhà thờ Gruzia đều theo phong cách La Mã. Văn hóa Gruzia rất chú trọng tới cá nhân và điều này đã được thể hiện qua sự phân bố không gian bên trong các nhà thờ. Các ví dụ khác về kiểu kiến trúc giáo hội Gruzia có thể được tìm thấy ở nước ngoài tại (Tu viện Bachkovo Monastery xây năm 1083 bởi vị tướng người Gruzia Grigorii Bakuriani) Bulgari, (Tu viện Iviron do người Gruzia xây dựng trong thế kỷ thứ X) tại Hy Lạp và tại Jerusalem (Tu viện Thánh giá do người Gruzia xây dựng ở thế kỷ thứ IX).
Các khía cạnh khác về kiến trúc Gruziza gồm Đại lộ Hausmannized Rustaveli ở Tbilisi và Khu phố cổ.
IX. Nghệ thuật
Nghệ thuật Gruzia đa dạng từ các phong cách tiền sử tới Hy Lạp, La Mã, Trung Cổ, từ các bức ikon (tranh thánh) tới nghệ thuật thị giáchiện đại. Một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của Gruzia là Niko Pirosmani, ông là một trong những họa sĩ có ảnh hưởng nhất trong trường phái nguyên sơ trên thế giới. Các tác phẩm của Pirosmani cũng mang một số yếu tố tiền ấn tượng vì thực tế ông chính là người gây ảnh hưởng và người truyền cảm hứng cho Lado Gudiashvili và Elene Akhvlediani những nhân vật chủ chốt của trường phái ấn tượng trong thế kỷ XX.
X. Ẩm thực

Mtsvadi (Thịt lợn nướng kiểu Gruzia)
Ẩm thực và Rượu Gruzia được đánh giá cao trên khắp thế giới, thích ứng với các truyền thống từ nhiều vùng khác nhau. Một trong những kiểu bữa tối truyền thống nhất là Supra, hay bàn ăn Gruzia, đây cũng là cách hòa nhập giữa bạn bè và các thành viên trong gia đình, theo đó Tamada là người chủ trì Supra, người chịu trách nhiệm điều phối những chén rượu, và đảm bảo rằng tất cả mọi người đều hài lòng với bữa tiệc. Nhiều vùng lịch sử tại Gruzia cũng có những món ăn nổi tiếng riêng của mình: ví dụ, Khinkali (bánh bao thịt), từ vùng núi phía đông Gruzia và Khachapuri – chủ yếu từ Imereti, Mingrelia và Adjara.
Ngoài các món ăn truyền thống Gruzia các loại thực phẩm từ các quốc gia láng giềng cũng theo chân những người nhập cư tới nước này, từ Nga, Hy Lạp, và gần đây là Trung Quốc.