TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC GREENLAND
Greenland nghĩa “vùng đất của con người”; tiếng Đan Mạch: nghĩa “Vùng đất xanh”) là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc Đan Mạch. Dù về địa lý và dân tộc đây là một đảo quốc Bắc cực liên kết với lục địa Bắc Mỹ, nhưng về lịch sử Greenland có quan hệ mật thiết với Châu Âu. Đại Tây Dương bao quanh Greenland ở phía đông nam; Biển Greenland ở phía đông; Bắc Băng Dương ở phía bắc; và Vịnh Baffin ở phía tây. Nước nằm gần vùng này nhất là Iceland, ở phía đông Greenland trong Đại Tây Dương và Canada ở phía tây bên kia Vịnh Baffin. Greenland là hòn đảo lớn nhất thế giới. Đây cũng là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới

1. Vị trí địa lý – khí hậu
Địa lý: Greenland nằm trải dài trên 24 vĩ độ, từ mũi Uummannarssuaq (tiếng Đan Mạch: Kap Farvel, tiếng Anh: Cap Farewell) cực nam ở 59°46′ độ vĩ bắc (ngang Oslo) tới đảo Inuit Qeqertaat (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben) ở 83°40′ độ vĩ bắc. Đảo có chiều dài 2.650 km và rộng khoảng 1.000 km, nằm cách Bắc cực 710 km, là lãnh thổ cực bắc của Trái Đất. Greenland có biên giới phía nam là Đại Tây Dương, phía bắc là biển Lincoln và biển Wandels (cả 2 biển này đều nằm trong Bắc Băng Dương), phía tây là eo biển Davis và vịnh Baffin, phía tây bắc là eo biển Smith và eo biển Nares, phía đông là biển Greenland và eo biển Đan mạch, cách Iceland 240 km.

Khí hậu: Greenland thuộc khu vực khí hậu Bắc cực. Nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất trong năm không vượt quá +10 °C. Có sự cách biệt về khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam, và giữa các vùng bờ biển với vùng sâu trong nội địa. Biển khơi cũng tác động tới khí hậu, làm cho không khí mùa hè mát hơn, trong khi mùa đông lại ấm hơn. Bởi vậy, ở dọc bờ biển phía Nam thì mùa đông ấm hơn và mùa hè mát hơn, trong khi ở dọc bờ biển phía Bắc thì mùa hè mát và mùa đông lạnh.
2. Chính trị
Lãnh đạo Nhà nước Greenland là Vua Đan Mạch, hiện là Nữ hoàng Margrethe II. Chính phủ của Nữ hoàng tại Đan Mạch chỉ định một Rigsombudsmand (Cao uỷ cao cấp) đại diện cho nhà vua Đan Mạch.
Greenland có nghị viện gồm 31 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Nghị viện họp mỗi năm từ 2 tới 4 kỳ. Các lãnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, tòa án, tiền tệ và nguyên liệu trong lòng đất do chính quyền Greenland giải quyết.
Ngoài ra Greenland 2 đại biểu trong Đoàn đại biểu Đan Mạch tại Hội đồng Bắc Âu.
Greenland không thuộc Liên minh châu Âu (đã rời khỏi tổ chức tiền thân của Liên minh châu Âu là Cộng đồng châu Âu năm 1985), dù Đan Mạch là một thành viên của tổ chức này.
3. Kinh tế
Đầu thập niên 1990 kinh tế Greenland rơi vào cảnh nợ nần nhưng từ năm 1993 nền kinh tế đã có bước cải thiện. Chính phủ tự trị Greenland (GHRG) đã theo đuổi chính sách thuế chặt chẽ từ cuối thập niên 1980 giúp tạo ra thặng dư trong ngân sách công cộng và tỷ lệ lạm phát thấp. Từ năm 1990, Greenland đã bị thâm hụt thương mại nước ngoài sau khi đóng cửa những mỏ chì và kẽm còn hoạt động năm 1990. Greenland hiện nay phụ thuộc nhiều vào công nghiệp đánh bắt hải sản, chế biến và xuất khẩu cá, tôm các loại, chiếm tới 90% tổng giá trị xuất cảng, là ngành mang lại nguồn thu lớn nhất.
Dù đã tái khởi động các hoạt động khai thác hydrocarbon và khoáng chất nhưng cần có nhiều năm nữa hiệu quả của nó mới thật sự đạt được. Du lịch là lĩnh vực duy nhất đã phát triển gần mức tới hạn của tiềm năng và thậm chí còn bị hạn chế vì mùa ngắn và chi phí cao. Việc sản xuất và buôn bán phần lớn do các xí nghiệp quốc doanh nắm giữ như hãng Royal Greenland (chế biến hải sản), KNI (hãng mậu dịch bán sỉ và bán lẻ), hãng điện thoại Tele Greenland, Royal Artic Line, Artic Umiaq Line và 37,5% của Air Greenland. Các hãng này đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Greenland.
Khoảng một nửa số chi phí công cộng do Chính phủ Đan Mạch tài trợ mỗi năm, bằng một khoản trợ cấp cả mớ (block grant), trong đó có khoản trợ cấp của Liên minh châu Âu và khoản thu từ bán môn bài đánh bắt cá là 280 triệu krone Đan Mạch/năm. Khoản trợ cấp này của năm 2007 là 3 tỷ 202,1 triệu krone Đan Mạch. Các chi phí hàng năm của chính phủ tự trị khoảng 6 tỷ krone Đan Mạch. Đây là khoản đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội. GDP trên đầu người tương đương với các nền kinh tế yếu kém ở châu Âu.
4. Hành chính
Greenland được chia thành 3 miền: miền Bắc, miền Đông và miền Tây. Về hành chính, Greenland chia thành 18 kommune (tương đương thị xã hay xã nông thôn). Các kommune này được tự trị ngay từ năm 1975, trước khi Greenland được tự trị, và hợp thành Hiệp hội kommune (tiếng Grenland: Kalaallit Nunaanni Kommuneqarfiit Katuffiat, viết tắt là KANUKOKA)
Các khu vực không chia thành kommune gồm có:
- Vườn quốc gia Greenland, rộng khoảng 972.000 km², bao gồm toàn bộ miền Đông Bắc
- Đảo Franklin, đảo ở giữa của 3 đảo nằm trong Kênh Kennedy, giữa Greenland và Đảo Ellesmere
- Đảo Crosier, đảo cực nam trong 3 đảo nằm trong Kênh Kennedy
- Đảo Inuit Qeqertaat (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben)
- Đất của Eirik Raude, nay là Đất của vua Christian X
- Căn cứ không quân Thule của Hoa kỳ ở Pituffik
- Peary Land
- Ikerasassuaq, phía đông Cap Farewell
Có khoảng 47.000 dân cư ngụ tại 18 thành phố và 9.648 người cư ngụ tại 60 thôn làng, phần lớn nằm ở bờ biển phía tây. Chỉ có khoảng 3.500 dân cư ngụ tại miền đông, trong 2 thành phố và 9 thôn làng. Việc tập trung dân số hiện nay đã khiến cho nhiều thôn nhỏ không còn người cư ngụ quanh năm (chỉ cư ngụ trong mùa hè và mùa thu v.v.)
5. Dân cư
Phần lớn dân ở Greenland là người Inuit. Có một nhóm thiểu số là người châu Âu, khoảng 12%, phần lớn là người Đan Mạch, 90% các người này cư ngụ ở thủ phủ Nuuk và 10% ở các thành phố lớn phía tây khác. Cách đây 140 năm, có một đợt dân nhập cư từ Canada.
Trong năm 2004, tổng số dân Greenland là 56.854 người, mật độ 0,14/km² ở các vùng không bị băng bao phủ. 91% dân cư ngụ ở bờ biển phía Tây, 1,6% ở phía Bắc và 6,3% ở phía Đông. Khoảng 20% dân không sinh ra tại Greenland và 88% người có quốc tịch Greenland,họ thường ở trong các tòa nhà truyền thống đầy màu sắc sặc sỡ làm từ gỗ tiền chế chuyển từ Đan Mạch tới Nuuk và các thị trấn ở Greenland:Síimiut, Ilulisat, Nanortalk,…Qua các tuyến hàng không Air Greenland và các tàu thủy ở các bến tàu của Greenland là những phương tiện vận chuyển duy nhất giữa Greenland và Đan Mạch.
Nhiều tên họ Đức như Fleischer, Kleist, Kreutzmann v.v… xuất xứ từ các nhà truyền giáo thuộc giáo phái Moravia. Các người này thường kết hôn với các phụ nữ Inuit hoặc nhận các con nuôi là các trẻ em người Inuit mồ côi.
6. Ngôn ngữ – Tôn giáo
Tiếng Greenland là một ngôn ngữ Eskimo–Aleut được sử dụng bởi chừng 57.000 người Inuit Greenland tại Greenland. Nó có quan hệ rất gần với những ngôn ngữ Inuit tại Canada như Inuktitut. Phương ngữ chính, Kalaallisuthay Tây Greenland, đã là ngôn ngữ chính thức của Vùng Tự trị Greenland từ năm 2009; đây là một quyết định của Naalakkersuisut (chính phủ Greenland) để bảo tồn ngôn ngữ bản địa, giảm bớt ảnh hưởng của tiếng Đan Mạch. Phương ngữ tứ hai là Tunumiit oraasiat hay Đông Greenland. Inuktun hay Eskimo vùng cực, là một phương ngữ của Inuktitut, được khoảng một 1.000 người Inughuit tại Greenland dùng.
Tiếng Greenland là một ngôn ngữ hỗn nhập, cho phép tạo nên những từ dài bằng cách nối những gốc từ và hậu tố tại với nhau.
96,6% người Greenland theo đạo Tin Lành giáo hội Luther. Từ năm 1993, Greenland có một giáo phận độc lập, do một Giám mục cai quản. Cũng có các cộng đoàn nhỏ các tôn giáo khác, như Công giáo, giáo phái Baptist, giáo phái Moravia, chứng nhân Jehova và đạo Bahai, chiếm khoảng 5% dân số.
7. Văn hóa
Hiện nay Greenland có 86 trường folkeskole (từ lớp 1 tới hết lớp 9) với khoảng 9.000 học sinh theo học. Có 3 trường gymnasium (từ lớp 10 tới hết lớp 12), 1 trường sư phạm và 1 đại học. Cũng có một số sinh viên theo học tại các đại học và cao đẳng ở Đan Mạch.
Ngôn ngữ chính dùng để giảng dạy là tiếng Greenland. Nội các tự trị lãnh trách nhiệm về giáo dục từ năm 1980.
Bóng đá là môn thể thao quốc gia ở Greenland, nhưng Greenland không phải là một thành viên của FIFA. Các quy định của FIFA bắt buộc rằng các nước thành viên tối thiểu phải có các sân bãi tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế, sử dụng cỏ tự nhiên. Khí hậu của Greenland không thích hợp để có được mặt cỏ tự nhiên đạt yêu cầu của FIFA. Gần đây FIFA đã thông báo rằng họ sẽ cho phép các đội bóng chơi trên sân FieldTurf, đây có thể là một giải pháp giải quyết vấn đề sân đấu cho Greenland.
Hầu như không thành phố và thôn làng nào có hệ thống đường sá nối với nhau, nên phương tiện chuyên chở duy nhất là máy bay, nhất là máy bay trực thăng, và tàu thủy. Ở một số khu vực là xe do chó kéo và xe scooter đi trên tuyết (tiếng Anh: snowmobile). Các tàu thủy hiện đại nối các thành phố phía Bắc với các thành phố phía Nam. Việc giao thông ở miền Đông chỉ thực hiện bằng máy bay và trực thăng.
Greenland có hải cảng ở 16 thành phố, cầu cập bến cho tàu và tàu đánh cá ở 60 thôn làng. Có 12 phi trường, 5 sân bay trực thăng và 42 trạm trực thăng.